07/02/2022 19:07 GMT+7 | Văn hoá
(Thethaovanhoa.vn) - Bài thơ Tình già của Phan Khôi đã đĩnh đạc đi vào văn học sử Việt Nam, bởi nó được nhìn nhận là bài thơ “mở đầu cho phong trào thơ mới”. Đến nay bài thơ trên vừa chẵn… 90 tuổi, nhưng “chất men” để tạo nên nó đã… 114 năm!
Bài thơ Tình già xuất hiện vào dịp Tết Nhâm Thân 1932, trên phụ san Tết của tờ Đông Tây (Hà Nội), tiếp đó là trên tuần báo Phụ nữ Tân văn (Sài Gòn) mà tác giả công bố là: “Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ”.
Quả thật, ở bài thơ Tình già, cụ Phan Khôi đã không tuân theo những ràng buộc của khuôn sáo, niêm luật cũ, mà “trình chánh giữa làng thơ” một tác phẩm không bị số câu, số chữ câu thúc, cách gieo vần cũng rất… ngẫu hứng: “Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa/ Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh, kề nhau than thở:/ - “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng/ Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”/ - “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?/ Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!/ Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thủy chung?... Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau/ Đôi cái đầu đều bạc/ Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!/ Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! con mắt còn có đuôi”.
Bài thơ là tâm sự của một đôi “nhân ngãi”, họ yêu nhau tha thiết, nhưng hoàn cảnh lại éo le không thể lấy nhau được. 24 năm sau, tình cờ gặp lại, kỷ niệm xưa ùa về nhưng… tiễn nhau rồi, cặp mắt còn lưu luyến!
Theo sự tiết lộ của gia đình cụ Phan và tư liệu của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân thì cụ Phan đã có viết một tự truyện kể về một mối tình thời trai trẻ của cụ, rất có thể đó chính là “nguyên mẫu” của bài thơ trên.
Đó là sau sự kiện “xin xâu” ở Quảng Nam (1907), Phan Khôi bị bắt giam và sự việc xảy ra bắt đầu từ những ngày cận Tết năm 1908 (đúng 24 năm sau đó thì bài thơ Tình già ra đời). Trông coi trại giam là một vị võ quan thô lậu nhưng sính chữ, nhân Xuân về ông quan này chọn lọc trong số tù nhân một người hay chữ để viết câu đối và Phan Khôi được chọn. Lúc ấy, Phan Khôi chưa đầy 21 tuổi và vừa bị gia đình người vợ chưa cưới từ hôn vì lâm vào vòng lao lý. Cuộc gặp gỡ định mệnh được cụ Phan kể lại như sau:
“… Đến nơi, thấy một đống cũng đến chín, mười cân lụa đỏ bỏ ngổn ngang trên chiếu giải dưới đất và một nghiên mực lớn mài sẵn. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi, to lớn, mặt đen, mũi to, ngồi trên sập giữa nhà, ấy là ông Ch. hất hàm chào tôi. Một thiếu phụ còn trẻ lắm, trạc tuổi tôi, người trắng trẻo, khuôn mặt trái xoan, cả đầu lẫn cổ quấn cái khăn nhiễu điều ngồi bên kia sập. Nhà không có cái ghế nào cả, tôi ngồi ngay trên cái chiếu dưới đất, chỗ để nghiên mực… Ông Ch. bảo tôi: “Có biết uống rượu không thì trời lạnh, uống mấy chén mà viết cho dựa tay”. - “Bẩm có thì cũng được”. - “Nhà còn nước không mình?” - Ông Ch. xây lại hỏi người thiếu phụ. Tôi nghe mới biết người ấy là bà Ch. vợ ông. Thiếu phụ đứng dậy đi vào bên trong cầm ra một chai rượu thuốc và một cái cốc rót đưa cho tôi một cốc đầy. Tôi uống cạn cốc rượu thì trải lụa ra viết. Ông Ch. sợ tôi viết quấy, cứ theo nhắc từng chữ… Tôi chừng muốn phát cáu. Người thiếu phụ xuống khỏi sập, lại gần nói cùng ông Ch.: “Tôi xem người này cầm bút là người viết thạo. Ngồi kiềm một bên thì còn ai viết được nữa chứ?”. Ông Ch. hình như chịu vợ nói phải, bước ra khỏi chiếc chiếu. Bấy giờ tôi thấy dễ chịu, hươi cây bút như rồng bay phượng múa, hết đôi này đến đôi khác, càng viết càng tốt. Người thiếu phụ cứ đưa con mắt theo ngòi viết tôi. Còn hơn đôi nữa thì hết, ông Ch. bảo vợ: “Mình ơi mình. Rót thêm cho va cốc nữa đi!” Người thiếu phụ ngoan ngoãn rót cốc rượu đặt trước mặt tôi và nói: “Nghỉ tay uống rượu đã thầy”. Tôi vâng lời như cái máy. Viết xong tôi cung kính chào ông Ch.: “Bẩm quan lớn”. Ông gật. Tôi lại hướng về người thiếu phụ: “Bẩm bà lớn tôi vào”. Thì người đứng dậy: “Tôi không dám, thầy lên”… (Một Phan Khôi tự truyện).
Ít lâu sau có một gia nhân của bà Ch. tên là Trưng, đến trao cho Phan Khôi một gói trầu cau và kể rằng: “Lâu nay tôi phục dịch hằng ngày trong nhà ông Ch. và được tin cậy nên bà Ch. có đem tình riêng ngỏ với tôi nhiều lần. Bà nói bà thấy thầy thì thương lắm, hôm nay gởi vật nhỏ mọn làm tin, mong ngày khác thầy cho bà gặp để nói chuyện…”. Từ đó, qua trung gian giúp đỡ của Trưng, đôi bạn trẻ tâm đầu ý hợp này đã có hẹn hò, gặp gỡ nhau vài lần nhưng chưa bao giờ vượt thoát ra khỏi đạo lý luân thường. Vị giám ngục thì canh chừng bà vợ trẻ hết sức cẩn mật. Rồi thì:
“… Một ngày tháng Chạp, thình lình tôi tiếp được lá thư của bà Ch., ấy là lần đầu bà viết thư cho tôi mà cũng là lần cuối. Trong thư bà nói nhân gần đi chữa lại đồ nữ trang, muốn gặp tôi tại nhà người thợ bạc… Tôi đến nhà thợ bạc thì gặp bà Ch. ở đó nhưng người trong nhà đông quá, chỉ nhìn nhau mà hai chúng tôi còn sợ tai tiếng, không dám nhìn no nê. Buổi chiều ở đó, ông cũng lò mò tới. Khi trông thấy cái sống mũi đỏ chờn vờn trước cửa thì tôi đã đảo ngõ sau, thành ra thủy chung với bà tôi chẳng trao đổi cùng nhau một lời nào. Tôi không ngờ lần đó là lần cuối cùng tôi gặp bà Ch., vì sang tháng Giêng bà lâm bệnh, được đưa về Huế điều trị, rồi mấy tháng sau có tin bà từ trần…” (sđd).
Người ấy chết rồi, nhưng trong tâm khảm của Phan Khôi vẫn vương vấn bóng hình của giai nhân, để rồi 24 năm sau, chàng vẫn tưởng tượng họ gặp lại nhau ở một nơi xa lạ, ôn lại chuyện cũ mà vẫn liếc nhau bằng… “con mắt có đuôi”!
Và hôm nay, chúng ta cùng chiêm ngắm một mối tình đẹp, một bài thơ hay đã gần trăm năm…
Hà Đình Nguyên
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất