(Bài dự thi) - Thủa
trước, xe đạp là một báu vật của nhiều người Hà Nội. Mỗi lần ông trẻ tôi làm
nghề đưa thư cho nhà dây thép đạp xe lên phố gõ cửa từng nhà đưa thư, ông quay cái chuông leng keng là cả
lũ chúng tôi chạy theo. Ông đèo tôi một đọan chạy dọc phố, sao mà khóai thế.
Ảnh minh họa (Nguồn: Internet)
|
Lớn
lên, vào trường Đại học đi sơ tán, ngày lên trường, chúng tôi phải cuốc bộ mấy
chục cây số từ ga Quán Triều Thái Nguyên để dựng lán trại học giữa rừng. Ai cũng
mơ: giá có cái xe đạp mà đi thì sướng biết bao? Ngày ấy, cả Khoa tôi chỉ mấy thầy là có xe đạp. Mỗi lần về Hà Nội họp,
các thầy lại gò lưng đạp cả ngày cả đêm mới tới nơi. Có chiếc xe đạp riêng, với
tôi, đó là niềm mơ ước.
Về
công tác ở Viện Khảo cổ học được năm sáu năm, do tích cực phấn đấu cộng với nhu
cầu công tác nên tôi được bình bàu cho mua xe đạp phân phối. Là đàn ông, tôi
được phiếu mua xe Thống Nhất Nam,
chị Hương cùng phòng được mua xe Phượng Hòang
Trung Quốc.
Xe
Thống Nhất thời ấy được ưa chuộng hơn xe Phượng Hòang. Xe Phượng Hòang rập
khuôn theo kiểu xe đạp của Anh,tuy nước sơn, nước mạ bóng bẩy nhưng nặng.
Bò lên dốc phải đạp bở hơi tai. Xe
Thống Nhất có bộ khung thật nhẹ, chắc, chạy rất bon.
Đến
Tràng Thi là cửa hàng duy nhất của nhà máy xe đạp ở Hà Nội lúc bấy giờ, tôi
loay hoay chọn trong dãy xe chỉ có dăm bẩy chiếc cái xe mà mình ưa nhất. Nghe
nói búng vào khung xe nếu nghe tiếng keng keng thật ròn là khung tốt. Tôi cũng
búng cũng nghe nhưng nào có phân biệt được. Khung nào cũng keng keng cả. Hồi
ấy, xe Thống Nhất giá trị nhất là bộ khung và đôi săm lốp Sao Vàng. Khung Thống
Nhất và lốp Sao Vàng là hàng nội chính cống nhưng ăn đứt nhiều lọai lốp ngọai,
khung ngọai.
Dắt
xe ra cổng, theo lời khuyên của mọi người, tôi không dám bơm xe đạp ngay mà
phải thuê thợ tháo ra, dũa các chân nan hoa nhọn, rắc bột phấn rôm vào bên
trong để săm lốp không dính vào nhau , lên vành cho cân, xiết lại những con ốc “tanh”
bắt vào “gác đờ bu” cho chắc. Tệ nhất là những con ốc vặn quá tay một chút là
chờn ngay tức thì. Sản phẩm của một thời “nhanh , nhiều, tốt, rẻ” là thế. Dẫu
sao tôi cũng đã có một chú ngựa riêng của mình.
Thường
xuyên dã ngọai, mỗi lần đi xa, tôi lại phải tháo rời đôi bánh xe, lấy giẻ cuốn
quanh chiếc khung rồi cẩn thận buộc chặt vào sau cái “Com măng ca đít vuông” để lên địa
bàn.Tài thật! có lần chúng tôi buộc cả ba chú ngựa sắt vào sau xe, đi đường
rừng núi tòan ổ gà sóc lộn ruột mà lên tới Lai Châu, Điện Biên xe vẫn chẳng hề
hấn gì.
Ngày
ấy, mấy anh em chúng tôi, mỗi người một chú ngựa sắt đang lang thang khảo sát
tận Tam Đường Lai Châu thì nghe tin tàu bay B52 bắn phá Hà Nội. Cơ quan sơ tán,
đội xe ô tô tản đi khắp nơi, thế là cả nhóm
quyết định phải tự đạp xe về . Tôi phải tháo bỏ đôi “gác đờ bu”
nhôm cho gọn nhẹ, lấy tre gia cố “póc ba
ga” để buộc chiếc ba lô chứa đầy vật mẫu đá nặng . Má phanh đã mòn vẹt, khi
xuống dốc phải dùng chân dận gót giầy chẹn vào bánh trước làm phanh. Mỗi khi
leo dốc, lội suối tôi mới thấy con ngựa Thống Nhất của mình nó tuyệt vời làm
sao. Võ Qúy cùng nhóm tôi cưỡi con
Phượng Hòang với bộ khung nặng trịch, lên dốc thì đẩy bở hơi tai. Cái anh khung
Thống Nhất và cặp giò Sao Vàng qua gian nan thử thách mới thấy nó tuyệt thật.
Sau hơn tháng trời, với con ngựa sắt Thống Nhất, tôi đã vượt bao đèo dốc từ Tam
Đường sang Điện Biên về Tuần Giáo. Vượt dốc Pha Đin dựng đứng như cầu thang. Lên
tới đỉnh, thình lình thấy cả đàn máy bay phản lực “Con ma” “ Thần sấm” ấm ầm lượn
dưới thung lũng lẻn vào đánh phá Thủ Đô mà đau thắt ruột. Rong ruổi đường
trường với con ngựa sắt Thống Nhất cuối cùng tôi cũng về tới Hà Nội khi trận
chiến B 52 vừa dứt. Nhìn lại con ‘Tuấn mã’ của mình tôi cảm thấy thân thương
như người bạn tri kỉ không thể xa rời được. Ôi con Tuấn mã đã cùng ta vượt qua
bao gian khổ của cuộc đời này !
Ngày
Thống Nhất, khắp bến tàu bến xe, đâu đâu cũng cảnh anh bộ đội da sạm nắng chiến
trường trên vai vác chiếc khung xe đạp Sài Gòn, ba lô con cóc bạc phếch thò ra
đôi chân con búp bê cứng đờ và trong ba lô là mấy thước lụa đen mua về cho mẹ,
cho vợ, cho con. Nắm được nhu cầu ấy, cánh thợ Sài Gòn đua nhau kiếm đủ lọai
ống túyp nước, cuốn tôn rởm làm khung xe, sơn bóng, kẻ mác ngọai đem bán. Xe
Miền Nam
ồ ạt đem ra nhưng chẳng mấy ai chuộng. Đi mấy ngày là rệu rã, gặp ổ gà thì gục liền.
Riêng cái anh xe Thống Nhất quốc doanh thì bộ khung vẫn là vô địch.
Sau
xe đạp đến thời xe máy. “Cá xanh, Cá xám”
rồi Honda ồ ạt chạy ra Miền Bắc. Xe Thống Nhất của tôi trở thành lạc hậu
với xe máy đang lên ngôi. Tôi cũng dành dụm mua được con “cá xám” nổ phành
phạch. Con ngựa Thống Nhất già tạm khóa để dưới gầm cầu thang.
Sau
một đêm mưa gió, sáng ra, xuống cầu thang, thấy con ngựa già Thống Nhất của tôi
bỗng “Không cánh mà bay”. Tôi bàng hòang như mất một người bạn già thân thiết.
Bao kỉ niệm của những chuyến đi xưa lại hiện về.
Người
ta bảo “ Ngựa Tái ông họa phúc biết về đâu” . “Trong cái rủi có cái may”. Có
người an ủi: “Của đi thay người ! Cậu có mất xe thì nhà máy
Thống Nhất mới bán được xe mới, công nhân mới có công ăn việc làm chứ?”
Chẳng
biết có đúng không nhưng đến bây giờ, xe đạp Thống Nhất và lốp Sao Vàng của ta
vẫn tồn tại và phát triển. Chẳng những thế, xe Thống Nhất Việt Nam
còn vươn xa đến tận thị trường Nhật, Mỹ…
Người
ta đã tôn vinh những chú ngựa sắt Thống Nhất Made in Vietnam chưa nhỉ? Riêng tôi, con
Tuấn mã Thống Nhất của tôi đáng được ghi công “ Tuấn mã phi thường, có công
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Ôi
! Tuấn mã yêu qúy của ta ! Giờ này mi ở đâu?
Vũ Thế Long