Sự nghiệp âm nhạc của Phạm Duy diệu vợi, bởi luôn ẩn chứa hình bóng của những người phụ nữ. Thế nhưng, không chỉ là yêu đương, những câu chuyện về Mẹ luôn là một trong những đỉnh cao âm nhạc của ông.
Mẹ của Phạm Duy có muôn mặt, muôn trạng thái. Nhưng luôn có chung một điều khắc khoải, đó là chờ đợi và lặng lẽ.
Mỗi một nhạc sĩ luôn có cho mình một vài hình ảnh xuất sắc của mẹ. Y Vân có Lòng mẹ, Trịnh Công Sơn có Người mẹ Ô Lý, Nhị Hà có Mẹ tôi… Nhưng với Phạm Duy, mẹ là một câu chuyện kể dọc theo đường đất nước. Mẹ có thể rất trẻ hoặc đã già nua, có thể là một biểu tượng sáng loà hay là điều bí mật mang theo suốt cả đời người. Là điều nhỏ nhất và cũng có thể là cả tổ quốc. Mẹ như cỏ dại và như đất trời. Là Đức Maria, Quán Thế Âm, và là bất kỳ người đàn bà vô danh nào đó trên cõi Việt.
Bìa bản trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy. Ảnh: TL |
Nghe những giai điệu về mẹ của Phạm Duy, có lúc mà đau quặn lòng. Những bài hát về mẹ của ông có một quyền năng kỳ lạ đánh thức tim người, nhắc khẽ tâm thức Việt Nam, thân phận Việt Nam.
Mẹ trong âm nhạc của Phạm Duy khác thường. Với nhiều nhạc sĩ khác, âm nhạc có mẹ là tạo hình để thương cảm, để chia sẻ. Còn khi đến mẹ của Phạm Duy, người nghe tự thấy mình nhỏ bé, tự thấy mình còn phải mang một niềm ơn.
Và với Phạm Duy, hàng loạt những ca khúc lừng danh về mẹ vẫn chưa đủ trong sự vinh danh mà ông mong muốn. Phạm Duy cũng là nhạc sĩ duy nhất có tập trường ca về mẹ, với 22 chương, hơn 2.000 ca từ. Trường ca
Mẹ Việt Nam được coi như một tuyệt tác, tạm tổng kết mọi giá trị mà ông muốn diễn đạt về hình ảnh của mẹ Việt.
Nói về trường ca
Mẹ Việt Nam, hay là nói về hình ảnh người mẹ (1992), nhà văn Đặng Tiến viết rằng: "Đó là tổng hợp tất cả tình cảm của Phạm Duy đối với quê hương và những trầm luân của mệnh nước nổi trôi qua hình ảnh người mẹ, đồng thời cũng diễn tả trọn vẹn ơn sâu nghĩa nặng của cuộc đời đối với chúng ta. Gọi là mẹ Việt Nam vì một cách nói, chứ mẹ là nguồn vốn không có quốc tịch. Mẹ là sông – ta có chữ "sông cái" là sông mẹ – mẹ là Biển Hồ lai láng, mẹ là trùng dương.
Nghe lại Mẹ Việt Nam, trở lại mẹ hiền, là về lại yêu thương, về lại cội nguồn, về lại bản thân".
Còn với nhà phê bình âm nhạc người Canada – Georges Etienne Gauthier thì "
Mẹ Việt Nam vẫn là bản liên hợp đẹp đẽ và lớn lao nhất của Phạm Duy từ trước đến nay. Hiếm khi trong tác phẩm của ông mà kỹ thuật và xúc cảm, lý trí và tình cảm lại hoà hợp trong một vẻ vĩ đại và toàn hảo vững vàng được như trong bản
Mẹ Việt Nam" (bài nhận định viết năm 1972).
Nói về mẹ, để thấy riêng chủ đề này, Phạm Duy đã hoàn thành cả một công trình, gom góp mọi cảm giác trên cuộc đời mà ông đi qua để giữ lại cho hậu thế.
Phạm Duy vượt lên vai trò của một nghệ sĩ bình thường khi ông ngẩn ngơ và dự báo những điều sẽ tới. Có thể đó là một nỗi buồn của thế kỷ mai sau:
"Mẹ bây giờ lạc loài trên thế giới Việt Nam là gì, giảng nghĩa cho coi Mẹ quên tiếng nói, tên họ đổi thay Cuối thế kỷ này, Mẹ sẽ hai mươi..."
|
Phụ nữ Việt Nam lấy chồng nước ngoài mỗi ngày một nhiều hơn, những người Việt phải xa xứ và phôi pha dần những điều quen thuộc của giống nòi. Trong căn phòng nhỏ, có một người nhạc sĩ già cặm cụi viết lời hát của mình vào không trung với nỗi niềm tuyệt vọng. Nhưng đâu đó, ông vẫn gieo hy vọng:
"Nhờ trong quá khứ, có mẹ lên ngôi Thắm thiết tình người, gửi tới nhân loại..." Mẹ đang đi vào cuộc đời đang tới Mẹ đang đi vào thế kỷ ngày mai"
(Mẹ năm 2000) |
Năm 2006, trong một lần trò chuyện, nhạc sĩ Lê Hựu Hà nói rằng dù là sống với dòng nhạc trẻ, nhưng ông vẫn chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cảm từ và tinh thần âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy. "Nghe nhạc Phạm Duy, mình thấy thương người Việt hơn, thương nước Việt hơn", Lê Hựu Hà nói.
Nhưng không phải ai cũng có thể hát được Phạm Duy với một tâm thức Việt, ngay cả với ca sĩ chuyên nghiệp cũng vậy. Ca sĩ Thái Thanh nói bà sợ phải trình bày ca khúc Bà mẹ Gio Linh, vì lần nào hát bà cũng khóc.
Trong một lần trả lời phỏng vấn đài RFI vào năm 2001, Phạm Duy nói rằng ông nằm trằn trọc trên chiếc giường tre ở chiến khu và viết một mạch bài hát này. Ông kể rằng khi viết xong, đọc lại, ông đã khóc: "Viết xong tôi khóc. Tôi nhớ hoài, tôi khóc như một đứa con nít".
Bài hát
Bà mẹ Gio Linh hay
Giọt mưa trên lá, với những hình ảnh được kể lại đều đặn, như những nhịp đóng vào trái tim, khiến ai mang một tâm thức Việt đều cảm thấy nhói đau và lặng người. Cái tài của Phạm Duy không chỉ là âm nhạc, ông vẽ lại lịch sử những bà mẹ Việt Nam, như đã nói, là sự khắc khoải, lặng lẽ và chờ đợi.
Quả có một cái gì đó là sự chờ đợi ở hình ảnh những bà mẹ Việt Nam trong âm nhạc Phạm Duy. Nhưng chờ đợi điều gì thì không rõ nét, vô vọng lẫn hy vọng... và đó luôn là điểm xoáy vào trái tim của người nghe, thổn thức đến tận cùng.
Mẹ đi đâu, bao nhiêu năm nữa, tâm tính mẹ Việt vẫn là vậy, là chắt chiu và chờ đợi, lặng lẽ. Ngay từ ngày đầu mà ông đã nhìn thấy: "Bà mẹ quê, ngày tháng không mơ ước gì, nhỏ giọt mồ hôi vì đời trẻ vui..." (Bà mẹ quê).
Và ngay trong mùa Xuân, mọi vật ngơi nghỉ, mẹ vẫn chắt chiu trong cõi riêng đời mình, mơ đến những điều bình thường mà vĩ đại: "Trời không mưa gió, mẹ bế con thơ, con bú say sưa..." (Xuân thì).
Trong nhạc tập của người Việt, âm nhạc của Phạm Duy như những điều đơn giản, dễ dàng đi nhẹ vào lòng người, nhưng thấm sâu hơn cả những bài luân lý ngày thường. Để kết, xin được mượn lời nhà văn Đặng Tiến, rằng: "Vài ba câu hát ấy đã vận dụng, chuyển hoá không biết bao nhiêu là cổ tích, ca dao, văn thơ cổ điển, phong tục tập quán Việt Nam. Nhạc Phạm Duy gây chấn động trong ta và sau đó còn lưu lại nhiều tiếng ngân dài như những "giọt mưa trên lá’’ làm sống lại những chồi dân tộc, những mầm nhân đạo có sẵn trong ta. Càng xa nước, ta lại cần nguồn, cần nghĩa mẹ, như nước trong nguồn chảy ra. Mát ngọt, trong trẻo và vô tận".
Theo Tuấn Khanh
SGTT