07/12/2021 20:00 GMT+7 | Văn hoá
(Thethaovanhoa.vn) - Thái Bá Lợi được xem là một trong số ít nhà văn viết về chiến tranh được bạn đọc chú ý và giới nghiên cứu lý luận văn học đánh giá cao. Bởi từ rất sớm, những năm sau 1975, ông đã có những tác phẩm về chiến tranh bằng một lối viết, một nhãn quan mới mẻ, vượt thoát khỏi không khí lãng mạn sử thi nặng về tuyên truyền, ca ngợi của dòng văn học chiến tranh thời bấy giờ.
Lần lượt những tác phẩm của Thái Bá Lợi ra mắt bạn đọc như Vùng chân Hòn Tàu (tập truyện, 1978), Thung lũng thử thách (tiểu thuyết, 1978), Họ cùng thời với những ai (tiểu thuyết, 1981), Bán đảo (tập truyện 1983)…Và gần nhất là Tuyển tập Thái Bá Lợi (NXB Hội Nhà văn, 2021) vừa phát hành.
Như mặt sau của một bức tranh
Riêng sự xuất hiện của truyện vừa Hai người trở lại trung đoàn in trong Vùng chân Hòn Tàu (1978) đã làm chấn động dư luận của dòng văn học chiến tranh hậu chiến. Tác phẩm thể hiện một cảm quan rất nhạy bén, bình tĩnh và bằng linh cảm trực giác của nhà văn để nhìn lại cuộc chiến tranh từ nhiều góc độ trước - sau, bên trong - bên ngoài, với sự chân thực và tỉnh táo.
Chuyện bắt đầu từ một cô gái giao liên tên Mây dẫn dường cho một toán quân của trung đoàn. Cô thông minh nhanh nhẹn, gan dạ dày dạn kinh nghiệm và tâm hồn trong trẻo, được mọi người yêu mến. Giữa cuộc chiến sinh tử, khó ai biết được sống chết như thế nào, Mây luôn nghĩ mình thuộc về đồng đội, thuộc về mọi người. Nhưng rồi oái ăm, Mây rơi vào một cuộc tình tay 3, phải chọn lựa 1 trong 2 người. Và, sự chọn lựa này trở thành một bi kịch với kết thúc khá cay đắng - khi người mà cô hết lòng yêu thương, gắn bó đã phản bội vì sự thăng tiến của cá nhân.
Hoặc, Bán đảo cũng là một chuyện tình sau chiến tranh đầy bi kịch, khi lịch sử tạo ra hoàn cảnh của những người bên ni - bên nớ giữa 2 chiến tuyến. Câu chuyện bắt đầu từ một người phụ nữ ngày trước có chồng là bộ đội. Thời thế loạn lạc, ly tán, chị phải bồng con vào miền Nam, sống tại bán đảo rồi lấy chồng, một người lính “bên kia chiến tuyến”. Người chồng cũ là một trung đoàn trưởng, trong lần cùng đơn vị vào giải phóng thị trấn bán đảo, vô tình anh gặp người vợ cũ của mình và đứa con gái “giống anh như đúc” sau 21 năm xa cách. Người chồng mới dù hết lòng thương yêu vợ, và cả đứa con gái của vợ mình, đã ra đi lặng lẽ. Câu chuyện dừng lại bằng một cái kết mở và bỏ ngỏ, chỉ để lại trong lòng bạn đọc nỗi bùi ngùi xa xót.
Có thể nói, Thái Bá Lợi viết về chiến tranh nhưng không đi sâu vào miêu tả những trận đánh, những cuộc tiến công, thắng lợi. Anh viết về số phận những con người, những cuộc đời đầy nghịch cảnh bị cuốn vào những hệ lụy từ chiến tranh. Như Trùng tu, cứ tưởng đó là câu chuyện của người chiến binh từng tham gia thời Mậu Thân ở Huế trở lại sau chiến tranh để làm công việc của một KTS nhằm “trùng tu, tôn tạo, bảo tồn” Thế miếu, Hoàng thành đã bị bom đạn từ 2 phía làm hư hại. Nhưng đó vẫn là câu chuyện chiến tranh, của một trung đoàn từng vào Huế chiến đấu, đến khi rút ra chỉ còn lại mấy chục người. Và, trùng tu ở đây không phải tô trét, sắp xếp gạch đá, dựng lại nguyên trạng di tích mà là tìm lại trong đống gạch đá đổ nát kia số phận của những người đã khuất, của những hy sinh xương máu đã bị lãng quên.
Nhịp cầu nối hiện tại với quá khứ
Ngay cả khi viết về lịch sử, Thái Bá Lợi vẫn tạo một mối dây gắn kết lịch sử với hiện tại, với những người đi tìm lại những dấu tích sau chiến tranh. Giống như tiểu thuyết Minh sư viết về Chúa Tiên Nguyễn Hoàng, khởi đầu câu chuyện vẫn từ 2 người đi tìm hài cốt của người thân đã mất trong chiến tranh chống Mỹ. Tác giả sử dụng phương pháp nghệ thuật đồng hiện giữa 2 tuyến nhân vật song hành tạo nên sự đan xen giao nối giữa quá khứ và hiện tại, lịch sử được nhìn lại dưới góc nhìn của người đời nay.
Trong sách, trên cơ sở những tư liệu ít ỏi, tác giả đã xây dựng nhân vật Nguyễn Hoàng - bậc Minh sư theo quan niệm của Phật giáo - là người thầy có đủ trí huệ để giáo hóa đệ tử một cách rành rẽ, chính xác, không sai lạc. Trong một lần trên đỉnh đèo Hải Vân, Nguyễn Hoàng bỗng nghe 2 người lính nói chuyện với nhau, 1 người thì hết lòng ca ngợi, người kia lại cho rằng Nguyễn Hoàng thực chất lo sợ Trịnh Kiểm sát hại nên tìm đường vào Thuận Hóa.
Và, tiểu thuyết khép lại câu chuyện bằng một đêm ngồi trên đèo Hải Vân nhìn về phương Nam, vị minh chúa dạy quân dân của mình: “Nếu như có một công tích lớn mà điều ác vẫn cứ tăng lên thì công tích đó chẳng có ý nghĩa gì, chỉ làm nối dài thêm đau khổ cho chính mình và cho người khác”. Đó là một suy niệm như một chân lý muôn đời của lịch sử.
Nỗi ám ảnh về chiến tranh đã theo suốt những trang viết của Thái Bá Lợi. Ông luôn bị ám ảnh về những số phận của con người sau chiến tranh, những tháng ngày tươi đẹp trong sáng, những giá trị đạo đức cao quý được thử thách trong chiến tranh, những niềm tin được nuôi dưỡng… và đối diện với chúng là những mất mát, xót xa nghiệt ngã đến nặng lòng. Có thể nói, viết về chiến tranh, lịch sử, trong sâu thẳm văn chương của Thái Bá Lợi luôn thao thức bằng ý thức của phản tư - một thuật ngữ triết học hiện đại hàm nghĩa là suy nghĩ hồi cố, phản tỉnh, phản khảo để nhìn lại, lục vấn quá khứ vốn đã bị nhìn nhận một cách hấp dẫn trong hư ảo.
Hơn 50 năm cầm bút, Thái Bá Lợi đã xuất bản 11 tác phẩm, gồm tiểu thuyết và truyện ngắn. Các tác phẩm được giải thưởng như Họ cùng thời với những ai (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 1983), Trùng tu (giải A Ủy ban toàn quốc Liên hiệp Các Hội Văn học - Nghệ thuật Việt Nam, 2004), Khê ma ma (giải B, Giải thưởng văn học - nghệ thuật thành phố Đà Nẵng, 2005), Minh sư (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, 2010; Giải thưởng Văn học Đông Nam Á - The S.E.A. Writer Award, 2013). Năm 2012, ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học - nghệ thuật cho các tác phẩm Họ cùng thời với những ai, Trùng tu. |
Hồ Sĩ Bình
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất