13/09/2009 12:45 GMT+7 | Đọc - Xem
Nhà văn Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, sinh năm 1936 tại Hà Nội. Ông đã có gần 20 đầu sách, chủ yếu là thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết. Giải B Hội Nhà văn Việt Nam 1986 (cho tiểu thuyết Mùa lá rụng trong vườn); Tặng thưởng của Hội đồng văn xuôi Hội Nhà văn Việt Nam 1995 (cho tập truyện ngắn Trăng soi sân nhỏ). Giải thưởng Văn học Đông Nam Á 1998; và bây giờ là Giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội 2009 (tiểu thuyết Một mình một ngựa). |
Để trống giải thơ Ngoài giải văn xuôi, giải lý luận - phê bình được trao cho Bút pháp của ham muốn, tập tiểu luận phê bình của Đỗ Lai Thúy (NXB Tri thức). Giải dịch văn học được trao cho Nhẫn thạch, tiểu thuyết của Atiq Rahimi (Pháp), bản dịch của Nguyên Ngọc, từ nguyên bản tiếng Pháp (NXB Hội Nhà văn, Nhã Nam). Riêng về thể loại thơ, hai tác phẩm vào vòng chung khảo là Trà nguội của Đặng Thị Thanh Hương; Phố đồng thảo của Chu Hồng Tiến, nhưng không nhận được đủ số phiếu quá bán, tức là chưa thuyết phục được hội đồng chung khảo. Hội Nhà văn Hà Nội quyết định để trống giải thưởng ở thể loại thơ và mong chờ sự khởi sắc trong đợt xét giải thưởng năm tới. |
Không đột phá, nhưng chứng tỏ sức bền của Ma Văn Kháng “Tiểu thuyết Một mình một ngựa... gợi nhớ bộ tiểu thuyết trường thiên ở giai đoạn đầu sự nghiệp của nhà văn, đã ghi dấu ấn trong dòng văn học về miền núi phía Bắc: Đồng bạc trắng hoa xòe, Vùng biên ải, Trăng non, Gặp gỡ ở La Pan Tẩn... Ở Một mình một ngựa, bên cạnh những vấn đề tâm huyết được đặt ra như phẩm chất con người cách mạng, bản lĩnh và ý chí con người trước những thử thách hiểm nghèo; thì vấn đề tổ chức và quản lý trong thực tiễn vùng cao cũng được xới lên một cách quyết liệt và thấu hiểu. Những trang văn thấm đẫm cảnh sắc núi rừng Tây Bắc, những rung động của tình yêu, của tình bạn, tình đồng bào làm cho tác phẩm trở nên dễ đọc và dễ chia sẻ. Tác phẩm không phải là sự đột phá, cũng không mới mẻ so với chính nhà văn Ma Văn Kháng. Nhưng điều được ghi nhận ở đây là sự vững vàng về tay nghề tiểu thuyết, cả trong kỹ thuật và nghệ thuật, và những vấn đề được đặt ra một cách thẳng thắn, không né tránh. Tác phẩm cũng chứng tỏ sức bền của cây bút tiểu thuyết Ma Văn Kháng (Theo Hội Nhà văn Hà Nội). |
Một mình một ngựa có dáng dấp một tự truyện
Toàn là giáo viên văn giỏi ở trường cấp III tỉnh Hoàng Liên. Anh được Ban tổ chức Tỉnh điều động sang làm thư ký cho bí thư Tỉnh uỷ có tên là Quyết Định – một công việc trái với sở thích và nghề nghiệp anh. Tuy vậy, anh đã nghiêm chỉnh chấp hành. Và thế là chuyển đổi hoàn cảnh, từ đây anh bắt đầu sinh hoạt trong một môi trường mới, ở một cơ quan lãnh đạo cao nhất của địa phương. Tại đây, có hai lớp nhân vật. Một là Ban thường vụ Tỉnh uỷ đứng đầu là bí thư Tỉnh uỷ Quyết Định. Hai là Các cán bộ trợ lý, những người giúp việc cho Ban Thường vụ – cỗ máy điều hành. Đang là những năm chiến tranh chống Mỹ (1965- 1975). Công việc bề bộn. Các uỷ viên Ban Thường vụ phải gồng mình trong việc lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác của địa phương, từ xây dựng kinh tế, văn hoá tới chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Tiêu biểu ở đây là Bí thư Tỉnh uỷ Quyết Định. Ông có một quá khứ oanh liệt: Giác ngộ cách mạng sớm, mới hai mươi tuổi, ông đã có lần, thay mặt Trung ương, một mình một ngựa, đi vào sào huyệt các thổ ty chúa đất để thuyết phục họ đi theo Chính phủ. Ông đã tạo được hình tượng thẩm mỹ của mình. Ông là người có đức, có tài. Là trung tâm đoàn kết của ban lãnh đạo, ông có bản lĩnh chính trị vững vàng, ông tâm huyết, tận tuỵ với chức trách, ông sống gương mẫu và trung hậu. Nhưng ông cũng còn hạn chế về tầm nhìn và thiếu tư chất quyết đoán của người chỉ huy cao nhất. Cuộc sống gia đình ông, với người vợ xinh đẹp, tươi trẻ, cũng gây cho ông nhiều buồn phiền. Cảm giác cô đơn, một mình một ngựa vừa hào hùng vừa cô độc chế ngự ông. Toàn đã đem hết hiểu biết, năng lực để thực hiện nhiệm vụ thư ký cho Bí thư. Anh cũng là người đề xuất những ý tưởng mới với Bí thư. Vừa thể hiện cái nhìn thông cảm, thương mến với mọi người, anh đồng thời vừa cảm thấy mình khó có thể hoà hợp được với cuộc sống có phần tủn mủn, ít ý nghĩa ở đây. Trong anh, tình yêu nghề thầy và những ràng buộc với kỷ niệm xưa cũ còn quá đậm đà, khiến anh luôn day dứt, không yên lòng. Cuộc sống những năm chiến tranh ở một tỉnh nhỏ với những hoạt động phong phú lôi cuốn mọi người vào lòng nó. Toàn sống trong trạng thái phân tâm. Anh vừa chia sẻ với mọi người, anh vừa ly cách với họ. Anh không dè bỉu những yểu nhược của họ, nhưng cũng không hoà đồng được với họ. Tình cờ trong một lần đi công tác, Bí thư Tỉnh uỷ Quyết Định, bị ốm nặng. Toàn, do cùng vợ bí thư đi lấy thuốc nam chữa chạy cho ông, đã bị làm rầy rà. Giọt nước đã tràn ly. Cuộc chia tay với chức trách của Toàn từ chỗ mới chỉ là dự cảm thế là đã thành hiện thực. Tiểu thuyết có dáng dấp một tự truyện của tác giả. |
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất