02/09/2020 05:02 GMT+7 | Văn hoá
(Thethaovanhoa.vn) - Có một lần, tôi đi công tác vào đúng dịp Rằm tháng 7. Nhiệm vụ thờ cúng tôi giao cho con gái khi đó đang là sinh viên đại học. Trước khi đi, tôi dặn dò con cẩn thận mâm cúng trong nhà, mâm cúng chúng sinh ngoài sân và đưa cuốn vở soạn những bài khấn từ tuần Rằm, mùng 1 đến Tết Táo quân... Con giở phần cúng rằm tháng 7 và thốt lên: "Mẹ ơi! Trong quyển sổ ghi bài khấn này có bài Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du mà con đã học ở phổ thông…".
Thật ra, việc đưa áng văn bất hủ này của đại thi hào Nguyễn Du vào văn khấn Rằm tháng 7 là điều tất nhiên vậy.
Từ lễ xá tội vong nhân, lễ Vu lan đến đạo Hiếu dân tộc
Ở Việt Nam, lễ xá tội vong nhân và lễ Vu lan báo hiếu diễn ra cùng trong ngày Rằm tháng 7 (Tết Trung nguyên). Tuy có chút khác nhau, nhưng do cùng chung nét đẹp đạo lý, nhân văn, nên một cách rất tự nhiên cả 2 lễ trên đã hòa chung làm 1.
Ngày Vu lan báo hiếu gắn với câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ trong ngày Tự tứ - ngày chư tăng mãn Hạ theo truyền thống đạo Phật. Theo Kinh Vu lan, đệ tử của Đức Phật là Mục Kiền Liên thương mẹ bị đọa đày ở kiếp ngạ quỷ (quỷ đói) đã thưa với Đức Phật cách giải cứu. Thấy tấm lòng hiếu nghĩa của đệ tử, Đức Phật dạy vào Rằm tháng 7 - ngày chúng tăng Tự tứ hãy dùng thức ăn ngon, ngũ quả quý cúng dường Phật tăng trong 10 phương thì mẹ sẽ được thoát khỏi kiếp khổ nạn. Mục Kiền Liên hiếu thảo đã làm theo và cứu được mẹ khỏi kiếp ngạ quỷ.
Từ tấm gương hiếu hạnh của Bồ tát Mục Kiền Liên, lễ Vu lan ra đời và trở thành ngày lễ lớn của Phật giáo ở Việt Nam và nhiều nước châu Á. Từ câu chuyện Bồ tát Mục Kiền Liên, người Việt Nam đã tiếp nhận ngày lễ Vu lan từ đạo Phật một cách cởi mở, linh hoạt, phù hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Trải qua thời gian, cùng hướng đến cội nguồn đạo lý, giá trị nhân văn, ngày xá tội vong nhân đồng thời trở thành ngày lễ Vu lan, được tôn vinh và nâng cao trong cuộc sống hôm nay để trở thành đạo Hiếu của dân tộc. Với lòng từ bi, bác ái, đạo Phật đã bao trùm tất thảy tình yêu thương đến mọi chúng sinh. Lễ Vu lan đã trở thành truyền thống, nhắc nhở mỗi người bổn phận làm con:
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Nghi thức cúng cô hồn xuất hiện ở nước ta từ rất sớm, thể hiện nét đẹp văn hóa tâm linh của người Việt. Cúng thí thực là bố thí cho ngạ quỷ, hay còn gọi là cúng cô hồn. Theo Việt Nam Phật giáo sử luận (Nguyễn Lang), từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn và Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế. Sách Bảo Đỉnh hành trì (do Huyền Quang tổ sư soạn thảo) được lưu truyền trong các chùa Việt cho thấy nghi thức Phật giáo đã được thịnh hành.
Vào ngày đó, mâm cúng chúng sinh thường có nồi cháo lẻ múc vào từng bồ đài bằng lá đa cắm bờ rào, ven đường: “Sống đã chịu một đời phiền não/ Thác lại nhờ hớp cháo lá đa”.
Cách thức tiến hành ngày Rằm tháng 7 đã được ghi chép trong sử sách. Theo Vân đài loại ngữ vào ngày Tết Trung nguyên “người ta để đồ mã và giấy ngũ sắc vào cái giường 3 chân, như cái đèn nổi, gọi là Vu lan bồn treo áo giấy, rồi lấy đóm đốt”.
Sách Đại Việt sử ký cho biết “Mùa Thu tháng 7, năm Giáp Dần, niên hiệu Thiệu Bình thứ 1 (1434); ngày 15 mở Hội Vu lan tha tù tội nhẹ 50 người…”.
Trong Văn minh Việt Nam, GS.TS Nguyễn Văn Huyên đã viết “Hội lễ dân gian của đạo Phật là ngày Rằm tháng 7. Đây là một kiểu ngày lễ của những người chết, trong ngày đó ở địa phủ, do lòng từ bi của chư Phật, một cuộc xá tội lớn được thực hiện, các ngục được mở và nhiều vong có tội được tỏa đi khắp thế gian. Các gia đình đi chùa cúng và tụng kinh để giải thoát cho hồn của thân nhân…”…
"Văn chiêu hồn" từng thấm hạt mưa rơi…
Văn tế thập loại chúng sinh (còn gọi là Văn chiêu hồn) là một trong số những tác phẩm làm nên sự nghiệp Nguyễn Du bên cạnh Truyện Kiều, Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm...
Văn chiêu hồn là một bài văn khấn bằng chữ Nôm hòa quyện cùng tiếng mõ, lời kinh cúng các loại cô hồn theo nghi thức văn hóa Phật giáo vào ngày Rằm tháng 7 hằng năm với mục đích cho các cô hồn được ăn uống, siêu sinh lên cõi trời thanh tịnh, lạc đạo “Muôn nhờ Đức Phật từ bi/ Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương”…
Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du thể hiện tính dân tộc và nhân văn sâu sắc. Ông không sử dụng hình thức văn tế biền ngẫu mang tính chất quy phạm, ước lệ sáo mòn thường thấy; cũng không viết bằng văn xuôi như Lê Thánh Tông trong Thập giới cô hồn quốc ngữ văn… Nguyễn Du chọn viết Văn chiêu hồn bằng chữ Nôm theo thể thơ song thất lục bát dễ thuộc, dễ nhớ. Nhờ sử dụng thể thơ dân tộc có vần điệu uyển chuyển, linh hoạt, cùng giai điệu diết da, thê thiết, Văn chiêu hồn có sức truyền cảm rất lớn, phù hợp với dạng văn tế.
184 câu thơ viết bằng chữ Nôm được kết cấu thành 3 phần chặt chẽ, súc tích. Nội dung phần 1 mở đầu miêu tả khung cảnh dương thế chiều Thu tháng 7 sùi sụt mưa dầm cùng lòng người não nuột, buồn bã, cô đơn thương xót những chúng sinh bơ vơ, lạnh lẽo nơi âm giới:
“Tiết tháng Bảy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh buốt xương khô
Não người thay buổi chiều Thu
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô rụng vàng”…
Trong phần 2, từ dương gian, Nguyễn Du hướng về cõi âm. Có tên Văn tế thập loại chúng sinh nhưng thực tế tác giả đã nhắc tới hơn “thập loại”, đó là 13 loại chúng sinh: Vương giả, công nương, quan văn, quan võ, thương nhân, trí thức, ngư phủ, nông dân, binh lính, kỹ nữ, hành khất, tù nhân, tiểu nhi.
Như vậy, Văn tế thập loại chúng sinh là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn trong “lục đạo”. Điều quan trọng Nguyễn Du đã xếp tất cả chúng sinh cùng chung trong “một kiếp người", không theo trật tự lễ tân từ quan đến dân mà theo trật tự "nhân tâm". Nghĩa là tác giả không phân biệt thành phần giai cấp, già trẻ, trai gái, lớn bé… Lúc thì gọi các cô hồn là đứa, người, kẻ: Đứa tiểu nhi tấm bé, người leo giếng đứt dây, kẻ mũ cao áo rộng, kẻ bài binh bố trận, kẻ tính đường trí phú, kẻ rắp cầu chữ quý, kẻ vào sông ra bể, kẻ đi về buôn bán, kẻ nhỡ nhàng một kiếp, kẻ nằm cầu gối đất, hành khất, kẻ mắc oan tù rạc…
Trong Văn tế thập loại chúng sinh Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho tất cả những người yếu thế, dễ bị chèn ép, bị bóc lột… trong đó phụ nữ và trẻ em là 2 đối tượng được nhận sự quan tâm nhất.
Trong Văn chiêu hồn Nguyễn Du có thể không khai thác đến tận cùng những bi kịch thân phận như Đoạn trường tân thanh, nhưng trong văn tế, ông viết về thân phận đàn bà bằng trái tim đồng cảm. Đó là người phụ nữ khuê các sống trong nhung lụa, nhưng gặp phải thời cuộc đổi thay: “Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”. Đó là người kỹ nữ - một “thập loại chúng sinh” hiện lên đầy xót đau: “Cũng có kẻ nhỡ nhàng một kiếp/ Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa”. Bằng sự cảm thương sâu sắc, nhà thơ dự cảm thân phận người kỹ nữ ngay thời xuân sắc đã hé mở một tương lai cô độc, hẩm hiu “Ngẩn ngơ khi trở về già/ Ai chồng con tá, biết là cậy ai”. Có ai như Nguyễn Du luôn cảm thương cho cuộc đời kỹ nữ “Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng” (Truyện Kiều). Tiếng khóc thương của tác giả khái quát chung từ văn tế: “Đau đớn thay, phận đàn bà/ Kiếp sinh ra thế, biết là tại đâu?”. Đến Truyện Kiều “Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”…
Cùng với cảm thương thân phận người phụ nữ, ông còn thương xót những hài nhi xấu số: “Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé/ Lỗi giờ sinh, lìa mẹ lìa cha/ Lấy ai bồng bế vào ra/ U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng”. Từ tiếng khóc u ơ của con trẻ do “lỗi giờ sinh” nhà thơ muốn truyền gửi thông điệp cho thế hệ sau là con người với quyền lớn nhất là quyền được sống.
Trong phần 3, Nguyễn Du thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc với đất nước, con người. Tư tưởng nhân đạo có cội nguồn từ nhân sinh quan của tác giả đặt trong trong thế giới quan Phật giáo. Lòng nhân ái, bao dung khiến ngòi bút của ông bình đẳng với mọi cô hồn:
“Mười loài là những loài nào
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh
Kiếp phù sinh như hình bào ảnh
Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không”.
Viết về cõi âm, nhưng hình như tác giả ngầm định nói về cõi dương. Những cô hồn ấy "sống vô gia cư, chết vô địa táng" đang hiện hữu trên cõi đời, cõi người ở trong chính môi trường ngột ngạt, tăm tối. Nguyễn Du động lòng trắc ẩn với những kiếp người xiêu dạt khắp nơi. Điệp từ “hoặc” nối dài nỗi đau khổ triền miên: “Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi/ Hoặc là nương ngọn suối chân mây/ Hoặc là điếm cỏ bóng cây/ Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ/ Hoặc là nương Thần từ, Phật tự/ Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông/ Hoặc là trong quãng đồng không/ Hoặc nơi gò đống, hoặc vùng lau tre".
Nhà thơ Xuân Diệu đánh giá cao tác phẩm Văn Chiêu hồn độc đáo, duy nhất trong nền thơ Việt Nam ta từ trước đến nay “nói đến người chết, nói đến cái chết dưới trăm tình thế, chưa có bài thơ nào mà tập trung nói đến những hồn người chết như vậy và thực chất lại là sự ôm trùm rộng rãi những người sống…”...
Không chỉ đề cập đến hiện thực đau khổ của “thập loại chúng sinh”, Nguyễn Du còn mở ra con đường cứu giúp cô hồn thoát khỏi kiếp đời khổ hạnh. Ông cầu xin phép Phật nhiệm màu cứu giúp những cô hồn được giải thoát: “Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ/ Phóng hào quang cứu khổ độ u” (157-158). Với tấm lòng cảm thương mọi thân phận, Nguyễn Du mượn một đàn tràng của nhà Phật để mong “siêu sinh tịnh độ”, hướng con người đến với Phật pháp, để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ai của kiếp nhân quả luân hồi để được siêu thoát khỏi mọi kiếp đời khổ đau:
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có chi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.
Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không
Nam mô Phật, nam mô Pháp, nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài
Xung quanh thời điểm sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh có nhiều ý kiến khác nhau. Có nhà nghiên cứu nói tác giả soạn bài văn tế này vào đầu thế kỷ 19. Cũng có ý kiến cho rằng Nguyễn Du viết bài văn tế sau một đợt dịch khủng khiếp cướp đi mạng sống của hàng triệu người. Lại có ý kiến cho rằng, ông viết văn tế khi đang làm cai bạ ở Quảng Bình, trước Truyện Kiều…
Việc xác định thời điểm với các nhà nghiên cứu là cần. Nhưng tôi lại quan tâm nhiều hơn cái tâm của Nguyễn Du động lòng trắc ẩn trước mọi kiếp nạn. Sinh ra trong gia đình quan lại thuộc tầng lớp trên, từng sống trong cảnh nhung lụa, phú quý, nhưng do được sống gần dân, đã từng nếm trải cuộc sống “thập tải phong trần”, trái tim từng nhói buốt trước “Những điều trông thấy” ở xứ mình, xứ người, nên sáng tác của ông thấm đẫm sự đồng cảm, thương yêu sâu sắc với mọi kiếp đời, kiếp người.
Về Văn chiêu hồn, các nhà nghiên cứu đều cùng chung nhận định: Nguyễn Du là người có trái tim lớn, chứa được bấy nhiêu tình thương nhân loại và xã hội Lê mạt chính là nguồn nung nấu để hình thành nên tác phẩm.
Chủ nghĩa nhân văn là thông điệp lớn lao mà suốt một đời Nguyễn Du khắc khoải, theo đuổi, kiếm tìm và đặt cược cuộc đời mình trong đó. Cùng với “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh” là một áng văn Nôm bất hủ - một kiệt tác văn tế mẫu mực được kết tinh bởi những giá trị nhân văn sâu sắc nhất, tiến bộ nhất. Tự thân tác phẩm đã đưa Nguyễn Du trên văn đàn thế giới và ông được tôn vinh trở thành Đại thi hào dân tộc.
* Văn tế thập loại chúng sinh là số phiếm chỉ cho tất cả các loại cô hồn trong “lục đạo”. Điều quan trọng Nguyễn Du đã xếp tất cả chúng sinh cùng chung trong “một kiếp người", không theo trật tự lễ tân từ quan đến dân mà theo trật tự.
Trác Khánh Hương
Đăng nhập
Họ và tên
Mật khẩu
Xác nhận mật khẩu
Mã xác nhận
Tải lại captchaĐăng ký
Xin chào, !
Bạn đã đăng nhập với email:
Đăng xuất